Cảm thức về tội
Trong bất cứ hội dòng hoặc giáo phận nào cũng có những dịp đặc biệt để cho các linh mục, tu sĩ, chủng sinh, ngay cả đức giám mục tham dự nghi thức hòa giải. Lý do có những sinh hoạt này là để nói lên tầm quan trọng của bí tích hòa giải ngay cả đối với những người trong đời sống tu trì. Có lần Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chia sẻ rằng ngài đi xưng tội hai tuần một lần. Ngài nói, “Các linh mục cũng cần phải xưng tội, ngay cả vị giám mục. Chúng ta đều là những tội nhân. Đức giáo hoàng cũng đi xưng tội hai tuần một lần vì chính ngài cũng là tội nhân. Vị tư tế lắng nghe những gì cha nói, ban cho cha những lời khuyên, và ban phép tha tội cho cha. Tất cả chũng ta đều cần điều này.”
Lý do chúng ta đi xưng tội là vì chúng ta biết rằng mình là tội nhân. Chúng ta bước vào tòa giải tội vì chúng ta nhận thức rằng mình không được trong sạch. Trong sách Phúc Âm, những người mắc bệnh phong cùi bị cho là những người ô uế, là những tội nhân. Họ phải tuân theo luật của người Do Thái là phải bị cách ly khỏi xã hội, và khi đi đến đâu thì phải hô to để thông báo cho mọi người biết rằng mình là người ô uế để kịp xa lánh.
Đối với người mắc bệnh phong cùi thời xưa thì đã bị luật lệ ép buộc phải luôn nhớ đến vị trí thấp hèn và ô uế của mình. Còn ngày nay, bệnh phong cùi không còn nữa, và cái luật lệ gò bó mang tính xâm phạm giá trị con người cũng không còn nữa. Vì thế việc chúng ta có bị ô uế hay không là không phải do bất cứ một điều luật nào định đoạt mà là do chính lương tâm của mình tự mách bảo. Tuy nhiên, cái vấn đề của thời nay là không phải chúng ta thiếu điều luật, mà là chúng ta dường như đã mất đi tiếng nói lương tâm. Nhiều thập niên về trước, cố Đức Giáo Hoàng Piô XVII đã khẳng định rằng, “Cái tội lớn nhất của thế kỷ chính là sự mất mát cảm thức về tội lỗi.”
Và vì không còn cảm giác tội lỗi nên cũng không thấy có nhu cầu muốn làm sạch tội. Đối với người mắc bệnh phong hủi đến gặp Chúa Giêsu thì vì ông ta biết mình ô uế nên ông ta mới ao ước được tẩy rửa. Và ông ta tin rằng chính Chúa Giêsu có thể làm được điều đó cho mình. Còn đối với nhiều người trong chúng ta, vì không thấy mình dơ bẫn nên không cảm thấy cần được làm sạch. Và vì không thấy cần được làm sạch nên không cần chạy đến Chúa để xin được tẩy rửa. Như thế, chúng ta bỏ qua vô số cơ hội để đến với Chúa và lãnh nhận những ơn huệ từ sự tha thứ của Ngài qua lời nói vủa vị linh mục “Cha tha tội cho con.” Thật đáng buồn cho chúng ta khi ngày nay, mặc dầu thân xác chúng ta toàn vẹn và sạch đẹp, nhưng tâm hồn của chúng ta lại đang mắc bệnh phong hủi; và còn đáng buồn hơn nữa là chúng ta không hề nhận ra điều đó.
Bangkok, 14.2.2015
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
4 comments:
Today, I was led by an Angel to the chasms of hell. It is a place of great torture; how awesomely large and extensive it is! The kinds of tortures I saw: the first torture that constitutes hell is the loss of God; the second is perpetual remorse of conscience; the third is that one’s condition will never change; the fourth is the fire that will penetrate the soul without destroying it – a terrible suffering, since it is purely spiritual fire, lit by God’s anger; the fifth torture is continual darkness and a terrible suffocating smell, and despite the darkness, the devils and the souls of the damned see each other and all the evil, both of others and their own; the sixth torture is the constant company of Satan; the seventh torture is horrible despair, hatred of God, vile words, curses, and blasphemies. These are the tortures suffered by all the damned together, but that is not the end of the sufferings. There are special tortures destined for particular souls. These are the torments of the senses. Each soul undergoes terrible and indescribable sufferings, related to the manner in which it has sinned. There are caverns and pits of torture where one form of agony differs from another. I would have died at the very sight of these tortures if the omnipotence of God had not supported me. Let the sinner know that he will be tortured throughout all eternity, in those senses which he made use of to sin. I am writing this at the command of God, so that no soul may find an excuse by saying there is no hell, or that nobody has ever been there, and so no one can say what it is like.
I, Sister Faustina, by the order of God, have visited the abysses of hell so that I might tell souls about it and testify to its existence. I cannot speak about it now; but I have received a command from God to leave it in writing. The devils were full of hatred for me, but they had to obey me at the command of God. What I have written is but a pale shadow of the things I saw. But I noticed one thing: that most of the souls there are those who disbelieved that there is a hell. When I came to, I could hardly recover from the fright. How terribly souls suffer there! Consequently, I pray even more fervently for the conversion of sinners. I incessantly plead God’s mercy upon them. O my Jesus, I would rather be in agony until the end of the world, amidst the greatest sufferings, than offend You by the least sin. (Diary of St. Faustina, Divine Mercy in My Soul, 741)
PURGATORY
Shortly after this, I fell ill general exhaustion. The dear Mother Superior sent me with two other sisters for a rest to Skolimow, not far from Warsaw. It was at that time that I asked the Lord for whom else should I pray for. Jesus said that on the following night He would let me know for whom I should pray. The next night I saw my Guardian Angel, who ordered me to follow him. In a moment I was in a misty place full of fire in which there was a great crowd of suffering souls. They were praying fervently – but to no avail – for themselves; only we can come to their aid. The flames which were burning them did not touch me at all. My Guardian Angel did not leave me for an instant. I asked these souls what their greatest suffering was. They answered me in one voice that their greatest torment was longing for God. I saw Our Lady visiting the souls in Purgatory. The souls call her “The Star of the Sea.” She brings them refreshment. I wanted to talk with them some more, but my Guardian Angel beckoned me to leave. We went out of that prison of suffering. I heard an interior voice which said, “My mercy does not want this, but justice demands it.” Since that time, I am in closer communion with the suffering souls. (Diary of St. Faustina, Divine Mercy in My Soul, 20)
HEAVEN
Today I was in heaven, in spirit, and I saw its inconceivable beauties and the happiness that awaits us after death. I saw how all creatures give ceaseless praise and glory to God. I saw how great is happiness in God, which spreads to all creatures, making them happy; and then all the glory and praise which springs from this happiness returns to its source; and they enter into the depths of God, contemplating the inner life of God, the Father, the Son, and the Holy Spirit, whom they will never comprehend or fathom. This source of happiness is unchanging in its essence, but it is always new, gushing forth happiness for all creatures. Now I understand Saint Paul, who said, “Eye has not seen, nor has ear heard, nor has it entered into the heart of man what God has prepared for those who love Him.” (Diary of St. Faustina, Divine Mercy in My Soul, 777)
THÁNH NỮ FAUSTINA (1905–1938)
Nữ tu Faustina, người Ba Lan, được Giáo hội tuyên thánh ngày 30-4-2000, đã được Chúa cho thấy Hỏa Ngục năm 1936. Chị ghi trong Nhật Ký số 741:
“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn tới vực thẳm Hỏa Ngục. Đó là nơi tra tấn dữ dội, rất khủng khiếp và rộng lớn! Các cực hình tôi thấy: Cực hình thứ nhất tạo thành Hỏa Ngục là mãi mãi xa cách Thiên Chúa; cực hình thứ hai là lương tâm cắn rứt đời đời; cực hình thứ ba là tình trạng mãi mãi bất biến; cực hình thứ tư là lửa thiêu đốt mà không hủy diệt linh hồn – đau khổ khủng khiếp, vì đó là lửa tinh thần (không như lửa thường), đốt lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối dầy đặc và ngột ngạt khủng khiếp, mặc dù tối tăm, ma quỷ và các linh hồn vẫn thấy nhau, thấy người khác và thấy chính mình; cực hình thứ sáu là đời đời ở với Satan; cực hình thứ bảy là tuyệt vọng, căm thù Thiên Chúa, với các lời phỉ báng và nguyền rủa hèn hạ. Các linh hồn hư mất phải cùng nhau chịu các cực hình này, nhưng đó không là chấm dứt đau khổ. Có các loại cực hình đặc biệt dành cho các linh hồn cá biệt. Có các cực hình của ngũ quan. Mỗi linh hồn chịu những nỗi đau khổ khủng khiếp, không thể diễn tả nổi, liên quan những gì họ đã phạm tội. Có các hang động và hầm hố có các cực hình khác nhau. Hẳn là tôi đã chết giấc khi nhìn thấy các cực hình này nếu Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Hãy cho các tội nhân biết rằng họ sẽ chịu cực hình đời đời theo các giác quan mà họ đã dùng để phạm tội.”
“Tôi viết điều này theo lệnh của Thiên Chúa, để không linh hồn nào có thể viện cớ gì mà nói rằng không có Hỏa Ngục hoặc không có ai ở đó, vì thế không ai có thể nói như vậy. Tôi là Nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã được thăm Hỏa Ngục để tôi có thể nói cho các linh hồn biết về Hỏa Ngục và làm chứng về sự hiện hữu của Hỏa Ngục.”
“Tôi không thể nói về Hỏa Ngục bây giờ, nhưng tôi đã được lệnh của Thiên Chúa viết về Hỏa Ngục. Ma quỷ rất căm thù tôi, nhưng chúng phải vâng lời tôi theo lệnh của Thiên Chúa. Những gì tôi viết chỉ là bóng mờ nhạt của những gì tôi thấy. Nhưng tôi chú ý một điều: Đa số các linh hồn ở đó là những người đã không tin có Hỏa Ngục. Khi tôi tới đó, hầu như tôi không thể hồi phục vì hoảng sợ. Các linh hồn chịu cực hình ở đó thật khủng khiếp! Cuối cùng, tôi cầu nguyện tha thiết hơn để xin ơn hoán cải cho các tội nhân. Tôi không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên họ. Lạy Chúa Giêsu của con, thà con chịu khổ cực cho đến tận thế, giữa các đau khổ nhất, còn hơn con phản nghịch Ngài vì tội nhỏ nhất.”
Post a Comment