Nhìn lại một quãng đường (2009)


 
Một ngày nọ tôi đang nghỉ trưa thì bổng nhận được một cuộc điện thoại từ một người phụ nữ tên Mèm. Cô ta muốn đến gặp tôi và ngõ ý cộng tác vào những công việc mục vụ của giáo xứ. Tôi hẹn gặp cô tại nhà thờ. Hóa ra cô ta là một tu xuất, có kinh nghiệm dạy giáo lý cho trẻ em, biết đánh đàn và hát. Cô Mèm mới dọn về ở Nong Bua Lamphu không lâu và giờ đây muốn giúp cho việc nhà thờ. Nếu đây không phải là hành động của Chúa thì tôi cũng không biết phải giải thích như thế nào.

Với sự cộng tác của cô Mèm, việc mục vụ trong giáo xứ thêm khởi sắc. Bọn con nít cũng như giới trẻ được học giáo lý. Nhờ có một doanh nhân ở Bangkok cúng cho cây đàn electone nên trong Thánh lễ không còn phải dùng mấy cái đĩa CD nữa. Có tiếng đàn đi cùng tiếng hát, không khí trong nhà thờ sống động hẳn lên. Một số bạn trẻ còn có cơ hội để học đàn nữa. Sinh hoạt giới trẻ cả người Thái lẫn người Việt trở nên một trong những mục vụ quan trọng chiếm nhiều thời gian và công sức của tôi. Tôi tìm nhiều cách để thu hút giới trẻ và tạo cho giới trẻ cảm giác vui vẻ khi đến nhà thờ và sinh hoạt với nhau, cũng như xây dựng tinh thần bác ái trong giới trẻ bằng những sinh hoạt thiện nguyện như đi thăm và làm vệ sinh nhà cửa cho những người gia neo đơn trong các xóm làng.

Nhóm giới trẻ rất hòa đồng với nhau, mặc dầu trong nhóm rất đa dạng – có cả người Thái lẫn người Việt, có cả các em bị nhiễm HIV cũng như các em không bị nhiễm. Nhưng sự chấp nhận và đón nhận nhau đã làm cho mọi người vượt qua tất cả các rào cản để đến với nhau, không ngần ngại vui đùa với nhau, chọc ghẹo nhau, hoặc ngồi chung bàn ăn với nhau. Tôi thấy mình như một nhịp cầu để nối những mảnh đời lại với nhau để cho mọi người thấy sự đa dạng và phong phú của gia đình nhân loại được liên kết trong tinh thần yêu thương và chia sẻ. Mục vụ cho giới trẻ và thiếu nhi đã giúp cho tôi nhận ra sứ mệnh của mình một cách rõ rệt hơn. Người truyền giáo luôn phải là cầu nối giữa con người với con người và giữa con người với Thiên Chúa. Niềm hạnh phúc của tôi là nhìn thấy những con người rất khác nhau có thể xích lại với nhau và đón nhận nhau bằng tình tương thân tương ái. Như thế tôi đã bắt đầu làm điều mà tôi đã mong muốn từ những ngày đầu tiên trong đời sống linh mục của tôi, đó là trở nên khí cụ bình an của Chúa, để rồi trong tôi và qua tôi, danh Chúa càng ngày càng rạng ngời hơn.

Nhìn lại một quãng đường (2008)



Với phép của bề trên, tôi đã kết thúc chương trình học tiếng Thái sớm hơn dự định nửa năm vì tôi nóng lòng thử chân mình trên cánh đồng truyền giáo. Lối sống ở thủ đô Bangkok vui nhộn và hiện đại, nhưng tôi lại nhiều khi cảm thấy trống trãi. Bạn bè không có nhiều, không có nơi cho mình dâng Thánh lễ với giáo dân thường xuyên; và mặc dầu các cha tại DCCT nơi mình đang ở nhờ vô cùng nồng hậu và vui vẻ, nhưng tôi vẫn thấy thiếu một chút gì đó vì không được sống trong cộng đoàn của dòng mình.

Thế là đầu năm 2008, tôi thu xếp đồ đạc lên đường đến vùng đông bắc Thái Lan. Ở đây tôi được bổ nhiệm phục vụ tại nhà thờ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae ở tỉnh Nong Bua Lamphu, nơi có các thầy SVD và các seour dòng Mẹ Têrêxa đang phục vụ những anh chị em bị nhiễm HIV/AIDS. Công việc này trở nên một phần trong công việc mục vụ của tôi. Nhưng ngoài ra tôi phải bắt đầu tìm cách để xây dựng một cộng đoàn Công giáo tại đây, nơi mà lúc đó chỉ có leo teo vài gia đình đi lễ ngày Chúa Nhật. Trong cộng đoàn không có hội đồng mục vụ, không có người dạy giáo lý, không có các em giúp lễ, không có đàn phục vụ trong Thánh lễ, và nếu có đàn thì cũng không có ai để chơi. Việc hát trong Thánh lễ là mở đĩa CD có nhạc đệm và hát theo. Thánh lễ thật nhạt nhẻo. Trong nhà thờ chẳng có bao nhiêu hàng ghế mà chỗ trống vẫn còn nhiều. Thế nhưng tôi cũng phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới soạn được một bài giảng cho Lễ ngày Chúa Nhật. Tôi bỏ ra một ngày để đọc và suy niệm Lời Chúa, ngày thứ hai để viết bài giảng ra trên giấy bằng tiếng Thái, ngày thứ ba đánh máy bài giảng trên máy vi tính, ngày thứ tư để chỉnh sửa từ ngữ và văn phạm, ngày thứ năm và sáu là tập đọc và giảng cho trôi chảy trong thánh lễ.

Mọi sự đều bắt đầu như thế đó. Những ngày đầu tiên ấy không hề dễ dàng chút nào. Cô đơn có, buồn chán có, bị hiểu lầm có. Nhưng tôi tự động viên bản thân rằng: truyền giáo mà không hy sinh và khó khăn thì không phải là truyền giáo. Vì thế tôi đã phấn đấu và tìm cách làm những gì tôi có thể để chứng mình rằng Chúa đã sai tôi đến vùng đất này là có lý do chứ không phải là một điều vô nghĩa.

Nhìn lại một quãng đường (2007)



Những ngày đầu tiên trên đất Thái, bập bẹ với tiếng nói của người xứ Chùa tháp, học viết những chữ ngoành nghoèo như giun, và không biết những gì đang chờ đợi mình trên cánh đồng truyền giáo bao la bất tận với chỉ có một nửa phần trăm dân số là theo đạo Công giáo. Những ngày đó thật bở ngỡ nhưng cũng rất thú vị với những khám phá mới về chính mình và cuộc sống chung quanh. Mỗi chữ tiếng Thái học được là thêm một bước tiến trong quá trình hội nhập văn hóa. Cuộc hành trình không phải gian nan nhưng đòi hỏi sự tập trung và quyết chí khi mình là một trong hai linh mục Ngôi Lời đầu tiên được sai đến phục vụ tại Thái Lan. Nếu không thận trọng, tập trung và ý thức được sứ mệnh của mình thì rất dễ vấp ngã trong môi trường mới chất chứa nhiều cạm bẫy và thách đố. Thế nhưng nhờ vào lòng thương xót của Chúa, mình cũng đã vượt qua được thời gian thử thách đó để rồi tiến tới giai đoạn tiếp theo trên hành trình truyền giáo mà Chúa và Hội dòng đã giao phó.